-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
Cẩm nang cuộc sống
NHỮNG SỰ THẬT THÚ VỊ VỀ CÁ NGỰA CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT?
NHỮNG SỰ THẬT THÚ VỊ VỀ CÁ NGỰA CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT?
Cá ngựa hay còn được gọi là Hải mã; Hải long; Thủy mã, thuộc họ Cá chìa vôi với danh pháp khoa học là Syngnathidae. Trong y học, Cá ngựa có tác dụng làm ấm thận, tráng dương, gây hưng phấn, kích thích sinh dục, giảm đau. Ở Trung Quốc, người ta dùng cá ngựa tươi nấu với thịt gà ăn làm thuốc bổ khí huyết, ôn thận dương.
Thông tin chung:
Tên tiếng Việt: Cá ngựa, Hải mã; Hải long; Thủy mã.
Tên khoa học: Hippocampus spp.
Họ: Cá chìa vôi (Syngnathidae).
Công dụng: Cá ngựa có tác dụng làm ấm thận, tráng dương, gây hưng phấn, kích thích sinh dục, giảm đau. Ở Trung Quốc, người ta dùng cá ngựa tươi nấu với thịt gà ăn làm thuốc bổ khí huyết, ôn thận dương.
Mô tả Cá ngựa:
Các loài đều có những đặc điểm chung: Thân dẹt về bên, khá dày, cấu tạo bởi các đốt xương hình nhẫn, dài từ 15 - 20cm, có tới tới 30cm. Đầu giống đầu ngựa nằm ngang, vuông góc với thân hoặc cong xuống, trên đỉnh có gai. Mõm dài hình trụ, miệng nhỏ, mắt to, lưng võng có vây lớn, bụng phình to không có vây, vây ngực nhỏ, vây hậu môn rất bé. Cá ngựa đực có một cái túi ở bụng để hứng trứng do cá cái đẻ vào khiến nhiều người nhầm lẫn chúng là cá cái. Đuôi dài, xoắn tròn về phía trước, không có vây. Cá ngựa khá đa dạng về màu sắc, thường gặp cá ngựa màu vàng, trắng, vàng - nâu, đôi khi có pha đỏ và xanh đen nhạt. Khi bơi lượn trong nước màu sắc của chúng thay đổi rất đẹp.
Dù to, nhỏ hay màu sắc nào cũng dùng để làm thuốc được, nhưng người ta cho rằng Cá ngựa màu trắng hay màu vàng dùng làm thuốc là tốt hơn cả.
🌎Phân bố:
Cá ngựa sống ở các vùng biển, vịnh, ven bờ ở độ sâu từ vài mét đến hàng chục mét và được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, Cá ngựa thường gặp ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An và ven biển các tỉnh phía Nam từ Quảng Nam, Đà Nẵng đến Kiên Giang, nhiều nhất ở Vịnh Hạ Long, Bình Thuận, Khánh Hòa. Cá ngựa bơi thẳng đứng và bám vào thực vật hoặc san hô bằng đuôi, ăn động vật nhỏ di động và thực vật thủy sinh. Cá ngựa di chuyển chậm và để tránh kẻ thù thì chúng thường ẩn mình trong thảm cỏ biển, rạn đá, rạn san hô.
🤰Mùa Cá ngựa sinh đẻ:
Vào khoảng tháng 3 đến tháng 7.
Và có điều khác biệt so với các loài khác: CÁ NGỰA ĐỰC MANG THAI VÀ SINH CON. Thay vì nuôi thai nhi trong tử cung như ở động vật có vú, các con cá ngựa đực sẽ mang con trong một cái túi, giống như túi kangaroo.
Khi đến mùa giao phối, con đực và con cái sẽ nhảy múa quanh nhau và vẫy vây. Chúng có thể nhảy múa như vậy trong vài ngày trước khi thực sự giao phối.
Khi thấy hợp ý nhau, cá ngựa cái sẽ bơi lên mặt nước và con đực bám theo. Con cái sau đó đặt các trứng màu da cam sáng vào túi tự nhiên ở bụng con đực thông qua một lỗ ở đỉnh túi. Khi các trứng đã ở trong đó an toàn, con đực sẽ bơm tinh dịch và khép kín miệng túi lại. Trứng được thụ tinh và bắt đầu phát triển thành các cá ngựa con.
Đến đây nhiệm vụ của cá ngựa cái xong xuôi. Nó bơi đi và để cho cá ngựa bố tự chăm sóc lũ con. Bên trong túi cá ngựa bố, các cá ngựa con sẽ phát triển mắt, vòi, và đuôi nhỏ. Con con mất 20 ngày để phát triển.
Khi đến đúng thời kỳ, con cá ngựa bố sẽ mở miệng túi sinh sản của mình và các cơ trong đó sẽ co giật mạnh để tống tất cả các cá ngựa con ra ngoài. Chúng lao ra rất nhanh một cách rất ấn tượng. Một số loài cá ngựa có thể đẻ cùng lúc hơn 1.000 con.
Sau khi đẻ xong, cá ngựa bố chẳng làm gì thêm với lũ con. Lũ con phải tự chăm sóc bản thân và trốn các loài ăn thịt vì không được bố mẹ bảo vệ. Con cá ngựa bố thường không ăn gì trong vài tiếng sau khi sinh. Nhưng nếu lũ con còn lảng vảng xung quanh thì chúng có thể trở thành mồi ngon cho chính bố của mình.
Trong số hàng trăm cá ngựa con được sinh ra, chỉ có một hoặc hai con là sống sót để trở thành cá ngựa trưởng thành và sinh tiếp con cái.
Cá ngựa đã đến kỳ sinh sản.
Các loài hiện đã được tìm thấy:
Cá ngựa vàng (Cá ngựa lớn, đại hải mã - Hippocampus kuda Bleeker.), Cá ngựa trắng (Hippocampus kelloggi Jordan et Snyder), Cá ngựa đốm (cá ngựa ba khoang hay ba chấm, tam ban hải mã - Hippocampus trimaculatus Leach), Cá ngựa gai (Hippocampus brevirostris), Cá ngựa Nhật Bản (Hippocampus japonicus Kaup.), Cá ngựa mõm ngắn (Hippocampus brevirostris), Cá ngựa Úc (Hippocampus phylloperexeques). Mùa đánh bắt cá thường là tháng 8 đến tháng 9. Ngư dân không tổ chức đánh bắt Cá ngựa riêng biệt mà chúng thường được kết hợp khi đánh bắt các loài hải sản khác.
Hai loài được khai thác nhiều nhất là Cá ngựa gai và Cá ngựa ba khoang, hàng năm thu hoạch được khoảng 24 tấn cá ngựa khô trên cả nước. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng khoảng 20 triệu con cá ngựa được tiêu thụ cho mục đích y học và được nuôi làm thú cưng trên toàn thế giới mỗi năm. Một số quốc gia như Australia, Ấn Độ, Argentina và Philippines có chương trình nuôi Cá ngựa. Từ năm 1992 đến năm 1994, hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận đã phối hợp phát triển nghiên cứu nuôi Cá ngựa.
Hình minh họa.
Tại Viện Hải Dương học Nha Trang đã thành công trong việc thuần hóa, nuôi Cá ngựa ăn thức ăn chết thay thế cho thức ăn sống và đã thả vài chục nghìn Cá ngựa con ra biển để khôi phục và bảo vệ loại động vật tự nhiên này hiện đang bị suy giảm.
Thu hoạch: Cá ngựa thường được thu hoạch vào mùa hạ và mùa thu. Bộ phận được sử dụng là toàn thân đã bỏ ruột.
Chế biến: Cá sau khi bắt về đem rửa sạch, mổ bụng, bỏ ruột, uốn đuôi cho cong rồi phơi hay sấy khô. Có người còn dùng bàn chải để chải sạch lớp da sẫm màu bên ngoài và rửa sạch trước khi mổ cá hoặc ngâm cá trong rượu hồi hoặc rượu quế trong một thời gian, sau đó phơi khô hoặc sấy khô. Dược liệu cá ngựa dài, dẹt và cong, phần giữa to, mặt ngoài màu trắng ngà hoặc màu vàng nâu. Toàn thân có các đốt vân nổi và nhô lên ở dọc lưng, bụng và hai bên sườn như gai. Đầu nghiêng xuống hoặc hơi duỗi, phần trên đầu có khối u lồi, hai mắt lõm sâu. Đuôi thuôn và cuộn dần vào trong. Nguyên liệu to, màu sắc đồng đều, còn nguyên đầu và đuôi là loại đạt chất lượng tốt.
Bộ phận sử dụng của Cá ngựa: Cả con Cá ngựa.
Thành phần hóa học:
Các enzym sinh tổng hợp prostaglandin; Docosahexaenoic acid (DHA); Peptid; Protein; Các gene chống khối u.
Tác dụng của Cá ngựa:
Theo y học cổ truyền:
Cá ngựa có tính ôn, vị ngọt, mặn, mùi tanh (nếu không sao tẩm), tính ấm, không độc, có tác dụng làm ấm thận, tráng dương, gây hưng phấn, kích thích sinh dục, giảm đau, trị huyết khí thông, phụ nữ khó đẻ.
Theo y học hiện đại:
Các enzym sinh tổng hợp prostaglandin: Chất này tham gia vào quá trình điều hòa thần kinh, ổn định hóc môn và cải thiện hệ miễn dịch. Đồng thời, prostaglandin cũng kích thích sản xuất oxytocin – một loại hóc môn giúp chi phối các hoạt động tình dục của não bộ.
Docosahexaenoic acid (DHA): Đây là chất cơ bản để các quý ông có khả năng sản xuất ra tinh trùng.
Peptid: Được biết với tác dụng kháng khuẩn, bảo vệ cơ thể trước sự xâm nhập của các tế bào ngoại lai.
Protein: Cá ngựa có hàm lượng protein cao, có tác dụng chống oxy hóa, kéo dài tuổi trẻ.
Các gene chống khối u: Người ta tin rằng một số gen đặc biệt được tìm thấy trong Cá ngựa có khả năng chống lại sự hình thành và phát triển của các khối u.
🌿Bài thuốc chữa bệnh từ Cá ngựa
Chữa liệt dương, đàn bà chậm có con do suy dương khí
Tất cả băm nhỏ, ngâm với 1 lít rượu trong 5 - 7 ngày hoặc càng lâu càng tốt. Uống 20 - 40ml mỗi ngày. Người không uống được rượu nên pha thêm nước và mật ong để dễ uống hơn.
Chữa thở khò khè
Cá ngựa (5g), Đương quy (10g), sắc cùng 200ml nước đến khi còn khoảng 50ml, ngày uống 1 lần (Tài liệu nước ngoài).
Chữa viêm thận mạn tính
Bình luận